[Chương 2] Lòng Dạ Đàn Bà - Nguyễn Ngọc Thạch

 
Chương 2: Linh  

Tôi không biết ba là ai, cũng không biết mặt mũi má ra sao. Tôi không có gia đình. Người thân duy nhất trên cõi đời cũng đã bỏ đi hồi hai chục năm trước. Nhưng tôi vẫn sống. Sống vì lời hứa cùng người đó. Năm mươi năm, gần một cuộc đời tôi đã sống để chứng kiến bao đổi thay, chế độ, người cầm quyền, thời thế... chứng kiến từ lúc ông Thành giàu có, nổi tiếng như bây giờ còn là thằng làm công Lê Văn Thành tại hiệu buôn của nhà cô Lý Lệ Dung, tức cô chủ quá cố của tôi.
Năm mười tuổi, tôi được mua về làm con ở cho nhà cô. Khi đó còn bé, tôi không nhớ gì về gốc gác, ba má hay quê quán mình ở đâu. Chỉ mang máng rằng từng có người đàn ông cõng tôi trên vai, vụt qua những con đường lửa đạn, cùng tiếng ì đùng oanh tạc trên cao. Để rồi mình tôi bơ vơ ngồi bên vệ đường, khóc đến khản cổ. 
Khóc chán chê, tôi lại nhìn những con người nằm cạnh mình, cơ thể họ lạnh tanh, ám mùi chết chóc, máu và bom đạn. Nhiều người chết lắm... Cho đến khi có một đôi vợ chồng dừng lại, nách theo tôi rồi nhanh chân bỏ đi mất, tôi mới biết mình đã có một gia đình mới.   
Nhưng đời cay nghiệt, niềm vui chưa được bao lâu thì cơn bệnh tật, đói nghèo một lần nữa đẩy tôi vào cảnh cùng khổ. Nhà người ta nghèo, con cái lại đương đau nặng, tiền ăn bữa có bữa không thì làm sao chịu nổi thuốc men. Người lớn bàn bạc với nhau hồi lâu, rồi thay cho tôi bộ đồ tươm tất, dắt tôi đến nhà ông bá hộ Lý, bấy giờ cũng là cự phú miệt Cần Thơ.  
Từ đó tôi vào nhà cô Dung làm con ở. Nhìn tôi ốm yếu, còm nhom, người ta ái ngại, không biết phải giao việc gì cho làm, sợ đổ bể, hư hỏng rồi lại không có bạc mà đền. Đến khi cô Dung gặp tôi, cô xin phép ba là phú hộ Lý để tôi đến ở cùng cô, coi như con hầu cho một tiểu thơ đài các. Thấy cũng hợp tình, ông Lý gật đầu ưng thuận. Nhìn tôi ốm yếu, còm nhom, người ta ái ngại, không biết phải giao việc gì cho làm, sợ đổ bể, hư hỏng rồi lại không có bạc mà đền. 
Đến khi cô Dung gặp tôi, cô xin phép ba là phú hộ Lý để tôi đến ở cùng cô, coi như con hầu cho một tiểu thơ đài các. Thấy cũng hợp tình, ông Lý gật đầu ưng thuận. Ngày đó cô Dung vừa tuổi cập kê, gái đương xuân khoe trọn vẹn vẻ đẹp làm say đắm biết bao công tử trong vùng. Người ta săn đón cô, đưa lễ vật sang tận nhà muốn được kết thân cùng ông cự phú Lý, nhưng đều bị từ chối, phần khó kiếm được nhà môn đăng hộ đối, phần cô lắc đầu ý nhị, lần lữa bảo "con còn nhỏ, muốn ở thêm với ba vài năm". 
Nhà cô Dung còn có ba người anh trai, duy chỉ có cô là gái, lại phận con út, nên bao nhiêu tình thương, ông bà phú hộ đều dành cho cô. Mặc cho gia cảnh xuất thân là người Hoa, mặc cho xã hội còn nặng câu "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô", ông bà chủ vẫn yêu thương cô Dung hết mực. Cô xinh đẹp, nét đẹp nền nã, dịu dàng của người con gái mang hai dòng máu, tính tình lại hiền lành, vui vẻ, còn là người trí thức, biết cách đối nhân xử thế, giao thiệp đúng lễ giáo, gia phong, hỏi sao người ta không thích, không yêu.
Dù là kẻ bề trên, nhưng với tôi, chưa bao giờ Dung coi như con ăn, đứa ở, mà luôn đối đãi như một đứa em gái trong nhà. Ngay cả cách xưng hô, cô cũng bắt tôi gọi là chị Dung, chứ không được gọi bằng cô chủ. Có lần, cô Dung dẫn tôi đi chợ, sắm cho bộ đồ mới, rồi về nhà, tắm rửa sạch sẽ, mặc lên cho tôi. Tôi nhìn mình trong tấm gương đồng, thấy mình lạ lẫm, khác hoàn toàn với đứa con gái bẩn thỉu, dơ dáy trước đây. Cái tên Linh, cũng là cô đặt cho tôi, cô còn dạy tôi viết chữ, đọc sách, từ nay có thể tự mình viết tên của mình. Ơn cô, đời này kiếp này chắc chẳng bao giờ tôi trả hết. Cô Dung hay ngồi chải tóc, suối tóc dài óng ả vương mùi bồ kết thoang thoảng, tôi đứng kế bên, nhanh nhẹn chạy đi lấy mấy cây cài tóc khi cô cần. Mỗi lần như vậy, cô thường nói cùng tôi, "Chị thích có em gái, trong nhà chỉ toàn anh trai, không ai để chị chuyện vãn cùng. Có em, chị vui lắm." Cô tâm sự với tôi nhiều chuyện, kể cả những chuyện thầm kín nhất. Cô nói tôi còn nhỏ, sẽ không hiểu hết những gì tôi nghe và chính vì thế sẽ không phải nặng đầu suy nghĩ. 
Bí mật lớn nhất lúc bấy giờ là cô Dung đang yêu, nhưng người cô yêu không phải đám công tử, thiếu gia con nhà giàu thường hay lui tới gạ gẫm, tán tỉnh, chớt nhả cô, mà lại là một người làm công cho nhà. Địa vị cách biệt quá xa, làm sao mà hai người có thể đến với nhau? Chưa kể cả vùng Cần Thơ ai mà không biết ông Lý là người lúc nào cũng muốn tìm một chàng rể môn đăng hộ đối đặng không phải gặp phường đào mỏ, muốn chiếm của nhà ông. Ông thương tiền nhiều hơn thương con người.
  Cô kể, một lần do sơ sẩy, cô trượt chân té xuống con sông gần đó, may mà có một người công nhân đi ngang đó, nhảy xuống cứu kịp, chứ không nay đã thành người thiên cổ. Rồi cô tìm hiểu, lân la quen biết cốt để trả ơn, ngờ đâu bị cái vẻ thật thà, chất phác của người ta làm cho thương, đem lòng nhớ nhung, tương tư. Chưa kể là người có ăn học, cô Dung luôn đề cao cái thứ gọi là tự do ái tình của Tây phương, không thích cái tục hà khắc cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Tự do ái tình, tự do yêu đương có gì sai?  
Câu chuyện lén lút của cô và người công nhân kia vẫn âm thầm diễn ra, với sự giúp đỡ của tôi. Có lần, cô lén đi gặp người ta, tôi trong phòng giả vờ đặt cái gối dưới chăn, đặng ông Lý vào có hỏi thì nói cô đã ngủ tự nãy giờ. Cho đến một ngày nọ, cô hỏi tôi nếu như cô bỏ nhà đi, tôi có muốn đi cùng không? Lúc ấy, tôi không đắn đo, chỉ biết rằng cô Dung đi đâu thì tôi sẽ theo tới đó, cùng trời cuối đất gì cũng đi, ngoài cô ra, tôi có còn ai là người thân đâu.
Cho đến một ngày nọ, cô hỏi tôi nếu như cô bỏ nhà đi, tôi có muốn đi cùng không? Lúc ấy, tôi không đắn đo, chỉ biết rằng cô Dung đi đâu thì tôi sẽ theo tới đó, cùng trời cuối đất gì cũng đi, ngoài cô ra, tôi có còn ai là người thân đâu. Một tuần lễ sau, cô Dung, tôi, cùng người đàn ông mà cô thương, tên Thành, cùng nhau bỏ trốn khỏi đất Cần Thơ, bắt xe vào Nam lập nghiệp.  
Những ngày đầu khi sống cuộc sống mới tại đất khách, ông Thành tỏ ra không vui vì sự có mặt của tôi. Trong những đêm tối, tôi vờ ngủ say để nghe ông nói rằng bỏ đi đã vất vả, sao tự dưng lại đeo theo của nợ vào thân. Lần nào như vậy, cô Dung cũng cười, nhìn ông Thành rồi đáp: “Nó là em của em, anh cũng phải coi nó như em của anh, của nợ cái gì mà của nợ.”  
Những ngày cơ cực nhất cũng trôi qua, khi hai vợ chồng cô Dung dần ổn định cuộc sống thì cũng là lúc báo hỉ. Đứa con đầu lòng của hai người ra đời. Cô đặt tên cho nó là Nhân, Lê Văn Nhân. Thằng bé bụ bẫm, kháu khỉnh trong vòng tay cha mẹ nhìn thấy thương làm sao. Tôi mười mấy tuổi đầu vụng về gấp tã, xếp khăn cho con cô, rồi sướng rơn khi cô cho bế em trong lòng. Tôi thương con cô như chính nó là con đẻ của mình.  
Nhờ vào số vốn do bán những món nữ trang mình mang theo, cộng thêm sự thông minh, nhạy bén của bản thân, cô Dung giúp ông Thành mở một hiệu buôn nhỏ, rồi từ đó cứ thế mà làm ăn. Thời gian đầu chưa nhiều mối lái, ông Thành phải tự tay lăn lộn đi tìm nguồn hàng, rồi bỏ lại cho những tiệm nhỏ lẻ quanh khu Chợ Lớn. Có chuyến hoàn vốn, chẳng lãi bao nhiêu nhưng vui vì việc làm bước đầu thuận lợi. 
Dù cha mình là một nhà buôn có tiếng dưới Cần Thơ, mối lái làm ăn quen tại Sài Gòn không ít, nhưng cô Dung chưa từng nghĩ đến việc dùng mối quan hệ cha con kia cho việc làm ăn của chồng. Dù gì cũng là trốn nhà theo đàn ông, tiếng đời nó ác, dễ gì tha thứ hay coi trọng, nên cô không muốn gặp người quen cũ để tránh điều tiếng.  
Tằn tiện chắt chiu một quãng thời gian hơn chục năm, tới khi thằng làm công Lê Văn Thành trở thành ông chủ hiệu buôn Phát Đạt tiếng tăm lẫy lừng, sánh ngang hàng với mấy ông quan chức tai to mặt bự tại Sài Gòn. Hỉ sự cũng lần lượt kéo đến, những đứa con của vợ chồng cô Dung ra đời nối tiếp nhau, hai thằng con trai được cô đặt tên Lễ và Nghĩa sau chữ Nhân của đứa con đầu lòng, nhưng đến đứa bé cuối cùng, Trí, thì cô lại bỏ tôi mà đi.
Tôi còn nhớ hôm đó là một ngày mưa tầm tã, cô Dung tuổi đã ngoại tứ tuần, các đốc tờ(1) đều bảo rằng   con ở tuổi này rất nguy hiểm, muốn cô bỏ cái thai. Nhưng một người yêu thương con mình như cô thì làm sao có thể làm được điều đó, chưa kể, đứa con ra đời còn vì ông Thành lúc đó muốn có con gái sau ba cậu con trai liền kề. Vì lẽ đó mà cô cố chiều theo ý ông.  Cậu út ra đời đúng một tuần sau, cô Dung mất. Mất vì sức khỏe quá yếu cộng thêm bị chứng băng huyết sau khi sanh ở sản phụ. Thêm vào đó, vì những điều quá đau buồn xảy ra trong lúc mang thai nên... cô không qua khỏi.  
Trước khi mất, cô nắm chặt tay tôi, dặn tôi rằng phải thay cô chăm sóc cho gia đình, thay cô lo cho cậu út khi ấy còn đỏ hỏn trên tay. Vì lời hứa cùng cô Dung, hai mươi năm nay tôi đã sống và ra sức bảo vệ những đứa con không do mình sanh ra. Tôi không cho phép ai làm hại nó, trước kia cũng vậy, và về sau này cũng vậy. Dù có phải đánh đổi thứ gì chăng nữa, thì tôi cũng cam lòng.  
Sự ra đi của cô Dung, tôi không phải là người đau khổ duy nhất, dĩ nhiên, ông Thành với tư cách là chồng cô sẽ phải đau lòng gấp bội. Chưa kể... chính ông phải chịu một phần trách nhiệm trong sự ra đi đột ngột đó. Mất cô, ông như mất đi tất cả mọi thứ. Thỉnh thoảng trong những lần say xỉn trở về nhà, tôi nghe ông lảm nhảm, “Dung ơi, tha lỗi cho anh... Dung ơi!”. Hơn ai hết, tôi hiểu được những lỗi lầm đó xuất phát từ đâu, nhưng thương cô Dung, tôi biết mình không nên khơi lại nỗi đau trong ông Thành.  
Thời gian lại cứ vậy mà trôi qua, những đứa con của cô Dung mặc dù thiếu vắng sự yêu thương từ người mẹ, nhưng vẫn lớn khôn thành người. Cậu Lễ, cậu Nghĩa lấy vợ trong khi cậu hai Nhân vẫn muốn ở vậy để tập trung quản lý công việc gia đình thay ba. Riêng cậu Trí, hai mươi năm trời tôi coi cậu như con đẻ, chăm sóc cậu thay cho cô Dung, bù đắp luôn phần tình thương từ người ba mà cậu luôn thiếu hụt, đúng với ý nguyện và lời dặn dò ngày đó của cô. Nếu cô Dung linh thiêng nơi chín suối, chắc cũng có thể mỉm cười thanh thản.  
Nhưng chuyện đời thật khó lường, sự đau thương, tự trách bản thân cứ đeo bám ông Thành không rời, đến nỗi, ông lao vào rượu chè, bỏ mặc gia đình và sự nghiệp để cậu hai Nhân quản lý. Một thời gian sau, lâm bạo bệnh, mắt cũng từ đó mờ ảo, suốt ngày chỉ giam mình trong căn phòng cũ của hai người. Tính tình cũng từ đó mà trở chứng. Ông Thành cấm người làm và con cháu trong nhà mặc trang phục màu trắng, vì đó là màu yêu thích của cô Dung, chỉ cô Dung mới được mặc, ngày trước, cô thường mặc những bộ bà ba trắng khi ở nhà, còn dự tiệc, cô hay mặc áo sườn xám trắng có họa tiết rồng phượng, đính châu sa sang trọng tuyệt vời, đồng thời cũng nhắc nhở về gốc gác người Hoa của cô. Ông Thành dời bàn thờ cô Dung từ dưới nhà lên phòng ngủ. Ban đầu khi còn ăn cơm cùng các con, ông luôn bắt tôi dọn thêm một phần, nói là để cô cùng ăn. Mấy đứa con cùng người làm thấy lạ, lo sợ, nhưng biết tính ông gia trưởng nên cũng không ai dám nói tiếng nào, chỉ biết im lặng làm theo.  
Mặc dù thuốc thang đầy đủ, nhưng căn bệnh của ông Thành vẫn không thuyên giảm, thậm chí còn trở nặng hơn, đốc tờ tới khám rồi cho biết tim ông ngày càng suy yếu, con cháu đừng làm gì để ông tức giận hay phật lòng, có thể khiến ông chết bất đắc kì tử. Cũng từ đó, ông Thành chỉ sống trong phòng mình, hàng ngày cơm nước do tôi bưng lên. Cậu Nhân nhiều lần định nói ông xuống ở những lầu dưới để tiện đi đứng, nhưng ông nhất quyết không chịu, vì cô Dung thích ở trên cao để ngắm trăng, vả lại đây còn là căn phòng hai người đã sống cùng nhau từ lâu.  Trong ông, cô Dung vẫn luôn luôn tồn tại. Vậy mà, chẳng hiểu sao ông Thành lại chịu cưới thêm một con mụ mắt xanh mỏ đỏ vào nhà làm vợ thứ... Sự đời đúng là khó hiểu.  
Càng quái gở hơn khi ông nói cô Dung vẫn thường về thăm ông mỗi ngày rằm, ăn cùng ông chén cơm rồi mới bỏ đi mất. Một người chết đã hai mươi năm, nay lại về trần gian...
***
Bà Linh đang lui cui dưới bếp, tay thoăn thoắt chuẩn bị bữa cơm tối thường nhật cho gia đình, mùi xào nấu bay ngào ngạt khắp cả căn phòng nhỏ. Miên man suy nghĩ về những chuyện xưa khiến bà không tập trung vào công việc mình đang làm, nhưng cuối cùng vẫn nhớ với tay lấy chai dầu mè, thứ hương vị đặc trưng của đồ ăn người Hoa, bỏ một chút vào các món ăn. Gần hai mươi năm ở cùng bà Dung thuở trước, tự lúc nào bà Linh đã có thói quen nấu ăn đó. Những món ăn này cũng là do bà Dung chỉ dạy cho bà Linh cách thức chế biến. Mặc dù bà Dung mất đi, nhưng sự ảnh hưởng của bà trong căn nhà này dường như chưa bao giờ biến mất. 
- Bà Linh à, hôm nay ngày rằm, bà làm cho tôi chút đồ ăn chay.
Người vừa nói là bà nhỏ, vợ sau của ông Thành, bà Linh từ lâu vốn đã không ưa người đàn bà này. Thứ đàn bà mắt xanh mỏ đỏ, chỉ biết suốt ngày ăn rồi chưng diện, không hiểu ngày trước tại sao cậu Nhân đồng ý để ông Thành lấy hạng đàn bà này vào nhà. Khi đó ông Thành vừa qua cơn bạo bệnh, rồi tự dưng ông nói muốn tái hôn, và lấy một người nhỏ hơn mình hai mươi mấy tuổi, với lý do là muốn có thêm người chăm sóc.
Nghĩ mà nực cười, nếu cần người chăm sóc, có thể mướn ngay thêm một đứa người làm, hay thậm chí có thể mướn một nữ hộ lý về. Mắc chi lại cứ nhất thiết phải cưới ả đàn bà này. Càng khó hiểu hơn vì khi đó, trong khi mọi người đều nhất nhất bất bình, không đồng ý cuộc hôn nhân tréo ngeo thì cậu Nhân lại là người không phản đối, nếu không muốn nói là ra sức ủng hộ. Mặc dù được ông Thành, cũng như các cậu coi như người thân trong nhà, như em gái của bà Dung quá cố, nhưng bà Linh biết mình vẫn là phận người làm, bà không nên can thiệp trong chuyện đó, nên đành mang theo nỗi tức giận nhìn bà nhỏ vào nhà, rồi ngấm ngầm chống lại.
- Sao bà không dặn sớm, ban sáng đã đi chợ mua đồ đầy đủ, đồ ăn cũng vừa nấu xong. Nếu bà muốn ăn chay thì sai con Sen chạy qua con đường bên kia, có quán Pháp Hoa, mua ở đó mà ăn. 
- Đồ ăn bán ở ngoài làm sao mà ăn cho đặng. Bà coi còn chút rau, xào lên cho tôi một dĩa là được. Không lẽ việc đơn giản vậy mà bà không làm được sao? 
- Tôi trăm công ngàn việc trong nhà, chớ đâu phải như ai kia chỉ suốt ngày ăn diện, quần là áo lượt rồi đi ngồi lê đôi mách, chuyện trong nhà đi thưa cùng thiên hạ. Bà cứ lên nhà trên đi, nếu kịp thì tôi làm, không thì bà cứ ăn đồ cùng mọi người. Ăn chay cốt ở tấm lòng, chứ miệng nói ăn chay mà trong lòng tà dâm thì cũng bằng thừa bà nhỏ à.
Như hiểu rằng không thể chống lại bà Linh, nên bà nhỏ liếc xéo một cái, mặt đằng đằng sát khí bỏ lên nhà trên, để lại bà Linh đứng trong bếp lầm bầm.
- Muốn ăn thì lết vào mà làm. Đây đâu có rảnh mà phục vụ cái thứ đàn bà như mày. Nếu cô Dung còn sống, thứ như mày đừng hòng bước chân vào bậc thềm nhà này, chứ ở đó mà lớn lối.
Tuy miệng nói vậy nhưng bà cũng với tay lấy mớ rau còn thừa, cho vào chảo, làm cho bà nhỏ dĩa rau xào chay. 
***
Dọn cơm cho người nhà xong xuôi, bà Linh quay về bếp, cẩn thận chuẩn bị thêm một mâm cơm, bưng lên lầu cho ông Thành.
- Linh đấy à, vào đi. - Ông Thành trả lời khi nghe tiếng gõ cửa. - Hôm nay là ngày rằm đúng không cô?
- Dạ phải.
- Linh cứ để cơm đó lên bàn cho tôi, tối nay, tôi và Dung sẽ dùng. Có món đậu phụ xào chua cay không?
- Dạ có, món đấy chị Dung thích nhất mà, làm sao tôi dám quên. Chị Dung dạo này vẫn khỏe chứ thưa ông?
- Khỏe thì chắc là vẫn khỏe, nhìn người đầy đặn hơn trước, không khéo lại đòi giảm cân cho có eo thon như mấy bà đầm, bà Tây mới chịu. - Ông Thành nói rồi phì cười. - Nhưng tôi thấy Dung hơi buồn, chắc lại có chuyện gì phật ý, để tối nay gặng hỏi xem sao. Thi thoảng Dung vẫn hay hỏi thăm cô.
- Bao nhiêu năm nay mà chị Dung vẫn nhớ tôi, thật là... 
- Ừ, chị Dung của cô là người rất coi trọng tình cảm.
- Anh Thành nghỉ ngơi, tôi xuống lo công việc tiếp. Tối nếu có gặp, anh chuyển lời hỏi thăm chị giúp tôi.
Bà Linh chào rồi quay lưng bước ra, mắt không quên nhìn lên tấm di ảnh của bà Dung, vẫn là khuôn mặt xinh đẹp ấy, vẫn là nụ cười hiền hậu ấy. Qua làn khói hương mờ ảo từ bàn thờ, hình như, bà Dung vừa mỉm cười với bà Linh thì phải.
Bà Linh vội quay mặt, cố xua đi cảm giác gai lạnh dọc sống lưng. Biết rằng bà Dung đã mất cách đây hơn hai mươi năm, nhưng theo cách nói chuyện của ông Thành, hình như bà Dung vẫn thật sự còn sống và thường lui về thăm. Trước, cậu Nhân đã dặn mọi người trong nhà rằng, sau này khi nói chuyện với ông Thành, dù ông có nói chuyện gì vô lý tới đâu, mọi người cũng nên tin và nói theo để ông vui lòng. Nhất là mấy chuyện liên quan đến người vợ quá cố. Đốc tờ bảo rằng bây giờ, ông Thành không chịu được xúc động mạnh, và ông đang sống được chính nhờ vào niềm tin rằng vợ mình vẫn đều đặn về thăm hàng tháng.
“Tin rằng người đã chết vẫn còn về thăm để duy trì sự sống cho mình. Có chuyện kinh dị đến vậy sao?” Bà Linh thoáng nghĩ rồi thở dài. Cuộc đời này nếu có một người đàn ông chung tình với mình như vậy, chết cũng không gì hối tiếc. Dẫu sao, là đàn bà như bà Dung cũng đã là một hạnh phúc. Mấy chục năm trời lo cho gia đình của cô Dung, rồi tiếp tục là cuộc sống của những đứa con cô, tới giờ bà Linh dường như quên hẳn hạnh phúc của chính bản thân mình. Bàn tay vẫn chưa một lần chạm vào tay người khác giới, nói chi là yêu đương, ái tình.
***
Bà Linh trở về bếp, ngồi xuống bên mâm cơm cùng con Sen, thằng Tâm và thằng Tài.
- Hôm nay là ngày rằm, chắc ông Thành cũng kêu bà dọn thêm một phần cơm cho bà Dung phải không? - Con Sen tò mò hỏi.
- Ừ, đúng rồi đó, phải không bà Linh? - Thằng Tâm cũng nhanh chóng tham gia câu chuyện.
- Tụi bây biết rồi, còn hỏi tao làm gì, lo ăn cơm đi, nhiều chuyện quá.
- Vậy là bà Linh cũng tin rằng bà Dung còn sống hả? Hay là ông Thành gặp ma? - Thằng Tài lái xe cũng ngập ngừng hỏi.
- Trên đời này làm gì mà có ma với quỷ, tụi bây nói bậy, cậu Nhân nghe được thì bị la bây giờ.
- Mà con thấy bà Linh cũng ngộ, nhiều lần cậu Nhân kêu bà lên nhà trên ăn cơm, sao bà không lên? - Con Sen lại thắc mắc.
- Lên đó, nhìn mặt bà nhỏ, tao ăn cơm không ngon, ăn dưới đây với tụi bây vui hơn. Với lại, dù ở lâu thì lâu, chứ tao cũng thích nghĩ mình chỉ là người làm công, vậy cho nó khỏe. Tao không quen làm người giàu.
- Chà, hôm nay là ngày rằm, chắc tối nay lại có nhạc nghe. - Thằng Tâm nói bâng quơ, nhưng đủ để bà Linh chuyển sắc mặt, thoáng sợ hãi.
***
Đêm, trời đổi mùa, cái lạnh len lỏi vào từng ngóc ngách của căn nhà tráng lệ giữa lòng Chợ Lớn. Bà Linh vẫn còn thao thức trên chiếc giường đơn sơ, câu chuyện nói cùng ông Thành và đám người làm ban nãy khiến bà nhớ bà Dung vô cùng. Vài tháng gần đây, cứ mỗi đêm trăng rằm, bà Linh ngủ trễ hơn một chút đặng thức mà chờ đợi một giai điệu quen thuộc. Rồi điều đó cũng đến, lúc này đã là nửa đêm, tiếng nhạc bắt đầu vang lên, khe khẽ, rồi lớn dần. Đấy là tiếng nhạc từ chiếc máy hát đĩa than trên phòng ông Thành. 
Nếu như đây là ban ngày, tiếng nhạc ấy chắc hẳn rất khó có thể nhận ra giữa nhiều loại âm thanh hỗn tạp. Nhưng trong đêm khuya thanh vắng, nó vang lên rất rõ ràng. Giọng cô ca sĩ bắt đầu ngân nga sau đoạn nhạc dạo, trầm bổng, du dương. Đúng là bản nhạc này, không thể lẫn vào đâu được. Bản nhạc “Nguyệt lượng đại biểu ngã đích tâm”(2), một bản nhạc Hoa khá xưa mà cô Dung yêu thích.
Em hỏi anh yêu em có sâu đậm không?  
Anh yêu em bao nhiêu phần?  
Tình cảm của em là chân thật  
Tình yêu em dành cho anh cũng là chân thật  
Ánh trăng đã nói hộ lòng em.
Em hỏi anh yêu em có sâu đậm không Anh yêu em bao nhiêu phần?  
Tình cảm của em không di dịch  
Tình yêu của em là bất biến  
Ánh trăng nói hộ lòng em.  
Nụ hôn ngọt ngào đã khiến con tim em đập rộn ràng  
Mối tình đậm đà của anh, em sẽ ghi nhớ suốt đời
Em hỏi anh yêu em có sâu đậm không  
Anh yêu em bao nhiêu phần?
Anh thử nghĩ xem, anh thử nhìn xem
Ánh trăng kia đã nói hộ cho lòng em.

 
Nước mắt bà Linh lặng lẽ rơi, bà như lạc vào những miền ký ức xa xưa nhất, ngay những ngày mà cô Dung còn sống, ngồi nghêu ngao vừa hát vừa khâu lại cái áo rách vai cho bà khi cả ba vừa bắt đầu cuộc sống mới.
Trở về luôn cái ngày mà cô Dung mừng rỡ đến rơi lệ khi nhận được món quà từ ông Thành là cái máy hát đĩa than cùng bài nhạc Hoa mà mình yêu thích. Cả ngày hôm đó, cô ngồi mê mẩn nghe hơn trăm lần bản nhạc này.
Vậy mà... cô Dung đi đã hai mươi năm rồi.
Đang thả mình trong những kỉ niệm, bỗng bà Linh giật mình thoát ra khỏi quá khứ vì có tiếng động lạ xen ngang.
Cộc cộc cộc. 
Có tiếng gõ cửa phòng. Ai lại kiếm bà lúc đêm hôm như thế này? Bà Linh lại cảm thấy như có cơn gió lạnh thốc vào cơ thể, sống lưng gai gai. Không lẽ, là bà Dung muốn gặp mình sau bao nhiêu năm xa cách? 
Cộc cộc cộc.
Tiếng gõ cửa phòng lại vang lên. Nổi bật trên nền bài hát kia. Rõ ràng là có người đang gõ cửa, không phải bà thần hồn nát thần tính tự hù dọa mình. Bà Linh lấy hết can đảm, bước khỏi giường rồi chầm chậm tiến tới cánh cửa, chưa dám mở nó ra. 
Cộc cộc cộc.
Tiếng gõ lần nữa vang lên càng thêm thúc giục.
- Ai đó? 
Không có tiếng đáp trả. Bà Linh muốn rút lui, muốn trở về giường, nhưng như có một ma lực nào đó cứ níu tay bà, rồi kéo đến bên cái chốt cửa, từ từ bật mở nó ra. Dù là người hay ma, thì bà Linh cũng muốn biết kẻ đó là ai.
Đứng trước cửa phòng là người phụ nữ đang mặc bộ đồ bà ba trắng toát, tóc dài xõa ra tung bay trong gió, khuôn mặt bị bóng tối che khuất... Bộ đồ này, chẳng phải là của bà Dung sao, với lại trong nhà từ lâu đã cấm mặc đồ màu trắng kia mà. Trong bóng tối nhờ nhợ, hình ảnh người đàn bà áo trắng càng trở nên mờ ảo hơn. 
Bà Linh hãi hùng, cổ họng nghẹn lại như có một bàn tay vô hình bóp chặt. Bà muốn hét lớn lên nhưng hơi sức cứ nghẹn lại. Vội giật lùi vài bước, bà loạng choạng rồi ngã người ngồi lên giường. Người đàn bà áo trắng từ từ tiến lại gần bà.
- Bà Linh, bà Linh... Sao bà không nói gì vậy bà Linh? Con, Lan nè.
Cái gì? Lan? Con Lan sao? Lúc này bà Linh mới trấn tĩnh, nhìn kĩ lại, thì ra đúng là cô Lan, đang mặc chiếc áo ngủ màu trắng. 
- Thiên địa thánh thần ơi! Cô Lan, sao giờ này mà cô còn kiếm tôi? - Bà Linh vừa hỏi vừa thở hổn hển. - Sao tôi hỏi thì lại không nói gì, cứ im lặng mà vô phòng là sao?
- Con tưởng bà ngủ rồi nên không dám kêu lớn, với lại con thấy bà không nói gì, chỉ bước vào phòng, tưởng bà kêu con vào luôn.
- Thiệt đứng tim với cô, tôi mà chết, cô đền mạng cho tôi nghen. Sao cô kiếm tôi giờ này, có chuyện gì không, mà sao mặc đồ màu trắng, không lẽ cậu hai chưa nói cô nghe về chuyện trong nhà này không được mặc đồ màu trắng hay sao?
- Dạ, con có nghe rồi, nhưng bộ đồ con mới may trước khi lên đây, con tiếc... nên lén giữ lại mặc ngủ.
- Tiếc cái gì mà tiếc, để cậu hai hay ông Thành biết được, lúc đó đừng trách sao bị la. - Bà Linh chuyển cơn sợ thành nỗi bực dọc rồi trút sang cô Lan.
- Dạ, ngày mai con sẽ đem bỏ, bà Linh đừng la con, tội nghiệp. Con gọi bà giờ này, là muốn hỏi... tiếng nhạc kia, từ đâu ra vậy? Nãy giờ con vừa nghe vừa sợ, đánh liều mới dám qua đây hỏi bà.
- À, ra là vậy. - Bà Linh thở hắt ra. - Đây là lần đầu cô ở đây ngày rằm nên thấy lạ cũng phải. Tiếng nhạc đó từ phòng ông Thành.
- Từ phòng ông Thành? Sao giờ này mà ông Thành còn bật nhạc để nghe? Ghê muốn chết.
- Thì... ờ thì, ông Thành bật nhạc để nghe cùng bà Dung.
- Bà Linh đừng hù con chứ. Sao lại là bà Dung được? Bà Dung đã chết lâu lắm rồi mà. 
Lan vừa hỏi dồn, vừa lắp bắp vì sợ hãi đến tội.
- Chắc mấy nay lu bu công việc, nên cậu hai chưa nói cô nghe. Chẳng qua là ông Thành tưởng tượng ra bà Dung còn sống thôi. Ngày mai rồi tôi giải thích tường tận cho, bây giờ, về ngủ đi, khuya rồi. 
Lan gật đầu rồi quay người lại, định bước về phòng, nhưng đã hốt hoảng gọi bà Linh.
- Bà Linh ơi, không... không phải tưởng tượng đâu... Bà nhìn lên đi kìa.
Đứng từ sân sau này có thể thấy được cửa sổ phòng ông Thành. Một cơn gió thổi qua, tấm rèm cửa đỏ thẫm như máu trên phòng ông phất phơ, đủ hé lộ ra hai bóng người đương ẩn hiện bên trong. Một trong hai người đó vận bộ sườn xám màu trắng tinh.
Gió từ đâu lại thốc tới, kéo cánh cửa phòng ngủ bà Linh khép lại, phát ra tiếng kẽo kẹt chói tai.
--------------------
Chú thích: 




  •  Nguyệt lượng đại biểu ngã đích tâm: Lời Việt là Ánh trăng minh chứng cho tấm lòng em, bản nhạc Hoa được nữ ca sĩ Đặng Lệ Quân thể hiện.
  •  

  • Comments

    Sách Tiêu Biểu